Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát – Vị Bồ Tát tượng trưng cho trí tuệ siêu việt
Khi đến thăm các ngôi chùa, đặc biệt chùa lớn, sẽ thường thấy tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được đặt bên cạnh tượng Đức Phật Thích Ca. Như vậy đã đủ thấy Ngài có vị trí đặc biệt thế nào trong quan niệm Phật giáo.
Là vị Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng đặc thù của Ngài là trên tay phải, dương cao lên khỏi đầu, là một lưỡi gươm đang bốc lửa.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là một vị Bồ tát tượng trưng cho trí tuệ siêu việt và là một trong những biểu tượng quan trọng nhất trong nghệ thuật và văn học Phật giáo Đại Thừa.Bất kể ai thành tâm cầu nguyện tới Ngài sẽ được ban sự khôn ngoan và trí tuệ siêu việt của nhà Phật. Nhờ nương theo trí tuệ này mà ba đời chư Phật cùng các chúng sinh vượt thoát khỏi luân hồi.
Để tìm hiểu xem vị Bồ Tát này có những đặc điểm gì thì ngày hôm nay hãy cùng Kênh Tử Vi chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu trong video nhé
I.Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có tên gọi đầy đủ là Văn Thù Bồ Tát Ma Ha Tát, tiếng Phạn gọi là Manjushri, dịch ra là Văn Thù Thi Lợi, Mạn Thù Thất Lợi, dịch ý là Diệu Cát Tường, Diệu Đức. Trong đó, ý tứ của Diệu Âm, Diệu Đức là âm thanh êm ái nhẹ nhàng, đức độ ôn nhu thanh thuần. Trong các vị Bồ Tát đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là thượng thủ, phụ giúp Đức Thế Tôn Hoằng Pháp nên được danh xưng là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát.
Trong tất cả những kinh điển Phật Giáo Đại Thừa như kinh: Hoa Nghiêm, thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa…có nhắc đến ngài Văn thù Sư Lợi thường thay mặt Đức Thế Tôn thuyết giảng chánh pháp, có nhiều khi Ngài lại là người dẫn dắt, giới thiệu cho thính chúng những bài giảng pháp quan trọng của Đức Bổn Sư.
Ngài thấu hiểu Phật tính bao gồm cả ba đức: Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát cho nên trong hàng Bồ tát Ngài là thượng thủ, đại diện cho trí tuệ đạo đức và chân lý tinh thần. Ngài chính là vị Bồ Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ và ánh sáng tri thức, đạt được thành quả tu hành thông qua phương tiện tri thức.
Danh xưng của Ngài chính là xuất phát từ ý nghĩa Phật giáo mà Ngài mang, soi tỏ chúng sinh bằng tiếng nói dịu dàng và ánh sáng của đức độ.Văn Thù Bồ Tát chính là người con thứ 3 của đời vua Vô Tránh Niệm và được gọi bằng tên gọi đó là Thái tử Vương Chúng.
Vị Thái từ này đã thường xuyên cúng dường cho Phật Bảo Tạng và luôn phát nguyện độ cho chúng sinh. Vì vậy Ngài đã được phong làm danh hiệu Văn Thù Sư Lợi. Phật Bảo Tạng về sau này cũng đã thọ ký cho vị Thái Tử đã phải trải qua rất nhiều hằng hà sa số kiếp thì sau Ngài mới có thể trở thành Phật và lấy danh hiệu là Phật Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát có mối quan hệ gần gũi và thân cận nhất đối với Đức phật Thích Ca. Trong nhiều cuốn kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại Thừa thì Văn Thù Bồ Tát đều xuất hiện.
Do phải trải qua hằng hà sa kiếp thì mới có thể tu thành chín quả nên hiện thân của Văn Thù của Ngài ở trên thế gian là không phân biệt được Ngài là nam hay nữ. Tuy nhiên mọi vị Phật đều mang chân thân đó là một vị nam tử Hán. Cùng với đó là tùy thuộc vào độ chúng sinh của các vị Phật là khác nhau thì họ sẽ hiển thị một vẻ khác nhau.
II.Hình tượng Văn Thù Sư Lợi
Giống như hầu hết các hình tượng Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ngồi trên hoa sen, bởi vì hoa sen sinh ra từ bùn hôi tanh mà vẫn đẹp và toả hương thơm, nên nó được coi là đại diện cho sự tinh khiết của trí tuệ, có thể tồn tại giữa ảo tưởng mà không bị ảnh hưởng.
Ngài mặc một chiếc khăn choàng trắng, đôi khi là màu xanh lá cây, và đội vương miện bằng đá quý. Tám hình tượng của Bát Thánh Kiết Tường cũng được thể hiện trong một số tranh vẽ của Trung Hoa hiển thị xung quanh Ngài.
Biểu tượng đặc biệt nhất của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là thanh kiếm đang cháy trên tay phải của Ngài. Thanh gươm tượng trưng cho khả năng của tâm trí vượt qua những ảo tưởng và đau khổ trong cuộc sống. Nó còn mang hàm ý rằng chính lưỡi gươm vàng trí tuệ nầy sẽ chặt đứt tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người vào những khổ đau
Trong tay trái của Bồ tát là biểu tượng khá đặc trưng được giữ ngang ngực: hoa sen và mang một quyển sách. Quyển sách này được cho là Bát Nhã Ba La Mật, cùng với cử chỉ giảng dạy (Vitarka Mudra) tượng trưng cho sự dạy dỗ hoàn hảo.
Đây là biểu trưng cho tỉnh thức, giác ngộ. Đôi khi, chúng ta cũng thấy tay trái của Ngài cầm hoa sen xanh, biểu thị cho đoạn đức. Có nghĩa là dùng trí tuệ để dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái, như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm mùi bùn. Nói một cách khác là Bồ tát không phải người ẩn nơi non cao rừng thẩm, hoặc sống trong cảnh thanh tịnh u nhàn, mà là người sống chung đụng với quần chúng, lăn lộn trong đám bụi trần để cứu độ chúng sinh.
Nên có lúc họ ra làm vua, có lúc làm quan, cũng có khi làm kẻ tật nguyền nghèo khổ…Tuy sống trong dục lạc dẫy đầy, mà Bồ tát vẫn giữ tâm thanh tịnh không bị ô nhiễm như người đời. Đó là nhờ trí tuệ dứt sạch tham ái, viên thành đoạn đức.
Chúng ta cũng có thể bắt gặp hình tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ngồi trên lưng một con sư tử xanh, và sư tử đứng 4 chân trên hoa sen. Biểu tượng cuỡi trên lưng sư tử có ý nghĩa là, thông qua thiền định, một tâm trí hoang dã cũng có thể trở nên bình tĩnh.
Sư tử xanh được xem là vua của muôn thú ở rừng xanh, có sức mạnh và uy lực hơn tất cả các loài thú khác. Cho nên, lấy con sư tử để biểu trưng cho năng lực vô cùng của trí tuệ. Đó cũng là trí của Phật. Nhờ trí này Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đã chuyển hóa những vô minh, phiền não, những ý niệm chấp ngã, pháp trở về vô lậu và chứng chân thật tính.
Chiếc giáp Ngài mang trên người gọi là giáp nhẫn nhục. Nhờ nó nên các mũi tên thị phi không xâm phạm vào thân. Nó có thể che chở cho Ngài vẹn toàn tâm từ bi do đó bọn giặc sân hận oán thù không thể nào lay chuyển được hạnh nguyện của Bồ tát. Bồ tát không bao giờ rời chiếc giáp nhẫn nhục bởi vì nếu thiếu nó thì họ không thể nào thực hiện được tâm Bồ đề.
III.Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói với Bồ Tát Kim Cương Thủ: “Sau khi niết bàn, ta sẽ thuyết pháp cho chúng sinh tại nơi cư trú du hành của đồng tử Văn Thù Sư Lợi. Trên đỉnh ngọn núi thứ năm của nước Đại Chấn Na ở Đông Bắc phía Nam Chiêm Bộ Châu.” Đại Chấn Na được nói đến ở đây chính là Trung Quốc. Ngọn núi được đề cập chính là Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây. Văn Thù Sư Lợi chính là Văn Thù Bồ Tát. Trong kinh Phật cũng nói rõ rằng:”Văn Thù Bồ Tát ngồi trên liên hoa đài, cưỡi sư tử, đạo tràng tại Ngũ Đài Sơn“.
Ngũ Đài Sơn là một ngọn núi Phật giáo nổi tiếng. Vào thời nhà Đường, Ngũ Đài Sơn chính thức được công nhận là đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát.Trong quyển “Sơn Tây thông chí” có ghi chép lời vua Đường Thái Tông: “Ngũ Đài Sơn, là mật thất của Văn Thù Bồ Tát. Nơi vạn thánh nhân đều dừng lại. Đây là nơi tổ tông ta gieo trồng nhân đức, cần thiết để cúng dường, cung kính”.
Theo ghi chép trong “Hoa Nghiêm kinh”, khi mặt trời mọc, Văn Thù Bồ Tát dẫn hơn mười nghìn Bồ Tát đi độ hóa người hữu duyên trên Ngũ Đài Sơn. Vào thời Cách mạng văn hóa, Lâm Bưu hạ lệnh đánh bom nổ hai ngôi chùa trên Ngũ Đài Sơn để xây dựng biệt thự riêng. Kết quả trong khói bụi của vụ nổ xuất hiện tượng Văn Thù Bồ Tát.
Nơi đây còn có câu chuyện thần kỳ về hòa thượng Ngưu Vân. Nhờ thành tâm cung kính hướng Phật, ông đã được Văn Thù Bồ Tát khai trí.
Câu chuyện thần kỳ tại Ngũ Đài Sơn
Thích Ngưu Vân, tên tục họ Triệu, là người Nhạn Môn tỉnh Sơn Tây. Từ thuở nhỏ ông giống như thiểu não. Đến tuổi đi học vẫn chẳng biết gì. Cả ngày như vô tri vô giác. Chỉ khi nhìn thấy các tăng ni, mới có đôi chút phản ứng, biết cách chắp tay và lộ vẻ kính sợ. Cũng vì lý do đó, lên 12 tuổi, cha mẹ liền gửi ông đến xuất gia tại chùa Hoa Nghiêm trên Ngũ Đài Sơn. Ông bái pháp sư Tịnh Giác làm thầy.
Trong chùa, mỗi ngày ông phải đốn củi, đun nước. Nhưng đến giờ học pháp, vì đầu óc chậm chạp, nên ông chẳng nhớ chữ nào. Chúng tăng đều thường xuyên cười nhạo.
Thời gian cứ vậy trôi qua hơn hai mươi năm. Đến 36 tuổi, ông nói với mọi người: “Tôi nghe nói Văn Thù Bồ Tát thường hiển linh trên Ngũ Đài Sơn. Hôm nay tôi muốn đi tìm Ngài, thỉnh cầu ban cho tôi được thông minh hơn một chút, để có thể học thông kinh văn“.
Khi đó thời tiết lạnh cóng, tuyết rơi rất dày. Nhưng Ngưu Vân hòa thượng vẫn không lùi bước. Ông cố gắng hết sức leo lên đỉnh núi. Đến nơi, ông nhìn thấy một cụ già ngồi bên đống lửa sưởi ấm. Hòa thượng hỏi ông lão từ đâu tới. Ông nói từ đồng bằng tới. Hòa thượng Ngưu Vân lại hỏi ông, sao không thấy có dấu chân in trên tuyết. Ông lão đáp là vì tới trước khi có tuyết rơi.
Không đợi Ngưu Vân nói tiếp, ông lão hỏi: “Rốt cuộc con có tâm nguyện gì mà lại đi chân trần trên tuyết lạnh tới đây?”. Ngưu Vân hòa thượng đáp: “Con là một nhà sư. Nhưng con luôn cảm thấy chán ghét bản thân mình đần độn. Con không thể niệm thông kinh Pháp. Vì vậy, con tới đây tìm Văn Thù Bồ Tát, cầu xin Người khai trí huệ“.
Ông lão ngạc nhiên hỏi: “Nếu ở đây con không tìm thấy Bồ Tát, thì con định tìm ở đâu?“. Hòa thượng nói: “Con sẽ tới phía bắc Ngũ Đài Sơn“. Ông lão nói lát nữa mình cũng sẽ tới phía Bắc. Hòa thượng Ngưu Vân lại đi một vòng quanh đỉnh phía Đông. Nhưng ông không tìm thấy dấu tích của Văn Thù Bồ Tát. Do đó, ông từ biệt ông lão và đi đến đỉnh phía Bắc.
Gần tối, hòa thượng Ngưu Vân mới tới đỉnh phía Bắc. Ông vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ông lão nọ đang ngồi gần đống lửa. Ông tiến đến hỏi:” Sao cụ lại có thể tới trước con?“. Ông lão đáp là vì ông biết đường tắt. Trong tâm hòa thượng nghĩ thầm, lẽ nào ông lão chính là Văn Thù Bồ Tát? Vì vậy, ông quỳ xuống hành lễ. Ban đầu, ông lão từ chối không thừa nhận. Nhưng hòa thượng vẫn kiên trì quỳ dưới đất.
Hồi lâu sau, ông lão nói: “Thôi được rồi, đợi ta nhập định xem kiếp trước ngươi đã tạo nghiệp gì, mà kiếp này đần độn, mê mờ như vậy“. Ông lão nhắm mắt nhập định. Một lát sau mở mắt và nói: “Kiếp trước ông là một con trâu. Vì có cơ duyên vận chuyển kinh Phật, nên kiếp này chuyển sinh làm tăng nhân. Đầu não vẫn không linh hoạt. Ông hãy đi tìm một cái cuốc, đợi ta lấy phần nhục trâu còn tích tụ trong lòng. Đầu não ông sẽ trở nên thanh tỉnh.”
Rất nhanh, hòa thượng Ngưu Vân tìm thấy một cái cuốc. Ông lão bảo ông nhắm mắt lại, đợi khi được phép mới mở mắt. Ngưu Vân nhắm mắt, cảm thấy dường như trong lồng ngực chuyển động. Nhưng ông lại không hề đau đớn. Một lát sau, ông cảm thấy thân thể thoải mái, đầu óc minh mẫn, sáng lạng. Kỳ thực, Văn Thù Bồ Tát vận dụng thần thông để giúp Ngưu Vân. Bởi vì ngài đã thấy được sự thành tín nhất tâm hướng Phật của ông.
Khi hòa thượng mở mắt,thì ông lão biến thành Văn Thù Bồ Tát. Ngài nói với ông: “Từ nay, ông thông niệm kinh Phật sẽ đọc đến đâu nhớ đến đó. Ông có mối nhân duyên lớn với chùa Hoa Nghiêm, không nên rời đi.” Ngưu Vân mừng rỡ rơi lệ, quỳ xuống cúi đầu cảm tạ, ngẩng đầu lên đã không thấy dấu tích của Bồ Tát.
Từ đó, Ngưu Vân trở thành một con người khác, trí huệ siêu phàm. Ông đọc thuộc tất cả các kinh văn. Tháng 5 năm sau, khi đang đi quanh tháp Dục Vương học thuộc kinh. Đang niệm, đang niệm, ông đột nhiên thấy một luồng ánh sáng vàng từ phía Bắc Ngũ Đài Sơn chiếu thẳng tới chân tháp.
Trong ánh sáng xuất hiện một tòa bảo tháp. Rất lâu sau nó mới tan biến. Hòa thượng Ngưu Vân đã xây dựng một tòa bảo tháp giống những gì nhìn thấy trong luồng ánh sáng. Tại đây, ông hồng dương truyền thụ Phật Pháp. Cuối cùng ông trở thành cao tăng, tọa hóa vào năm Khai Nguyên thứ hai mươi ba.
IV.Một số câu chuyện về Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hiện thân
1.Câu chuyện thứ nhất – Bần nữ khất thực
Ngày xưa, có một người đàn bà góa chồng, không biết quê quán ở đâu, rất nghèo nàn đói lạnh, nhưng về phụ hạnh vẹn toàn, khiến hàng phụ nữ và đấng nam nhân, ai ai cũng đều kính phục.
Nàng nghe thiên hạ đồn rằng: Có một ngôi chùa kia do một vị sư trụ trì, hợp lực cùng mấy nhà từ thiện kiến lập trai đàn. Mục đích là cầu an cho bá tánh và bố thí gạo vải cho dân nghèo. Nghe tin ấy, nàng rất vui mừng, bèn bồng hai đứa con và dắt con chó đến Chùa để xin bố thí.
Đến nơi, nàng thấy trai đàn trang nghiêm thanh tịnh, đèn thắp sáng choang, khói trầm nghi ngút, những nhà giàu sang thì đang đem tiền của cho người nghèo khổ, thuốc thang tặng cho những người đau ốm bệnh hoạn.
Nàng đứng xớ rớ trong đám người đi xem trai đàn, mà trong lòng thì tự nghĩ: Người ta giàu có, tiền của dư giả, đem ra làm chay làm phước để cầu phước báu về sau. Còn mình thì phước mỏng nghiệp dày, thiếu thốn đói khát, há mình không tìm được một cách gì để bố thí làm lành như những người giàu sang kia được?
Nghĩ như vậy rồi, nàng liền tự hớt đầu tóc của mình, đem vào dâng cho vị trụ trì để làm vật bố thí.
Khi ấy chưa đến giờ thọ trai, Tăng chúng và thiện nam tín nữ còn đang hành lễ.
– Bạch thầy, phận tôi cơ hàn, chồng thì đã chết, để lại cho tôi hai đứa con nhỏ đây, và một đứa con ở trong bụng. Thế mà người thân chẳng có, gia sản cũng không, nên tấm thân phải vất vả, nay đầu làng mai cuối chợ, ăn nhờ hột cơm dư của quần chúng. Nay tôi đến đây, xin thầy từ bi bố thí cho mấy mẹ con tôi một ít cơm chay để đỡ lòng, mẹ con tôi còn đi xin nơi khác.
Vị trụ trì nghe vậy, liền sai ông đạo nhỏ chạy xuống nhà bếp đơm cho nàng ba bát cơm thật đầy. Vị trụ trì tưởng cho như vậy là đủ.
Ai dè, người đàn bà nhìn ba bát cơm một hồi, rồi thưa:
– Bạch thầy, thầy từ bi cho thêm một bát cơm nữa, đặng cho phần con chó.
Vị trụ trì nghe nàng nói như vậy, thì trong lòng đã hơi giận rồi, nhưng cũng ráng dằn lòng xuống và bảo người đi xúc cho con chó một bát cơm nữa cho êm chuyện.
Nào ngờ, người đàn bà tiếp lấy bát cơm, lại thưa tiếp rằng:
– Bạch thầy! Đứa nhỏ mà tôi đang mang trong bụng đây. Thiết nghĩ thầy cũng nên hoan hỷ cho nó một bát cơm nữa mới đúng!
Vị trủ trì nghe nói như vậy nổi xung, liền lớn tiếng:
– Kiếp trước nàng ôm lòng bỏn xẻn, không biết bố thí làm nhân, nên nay mới chiêu cảm cái thân bần nữ như thế, lại góa bụa không chồng, sống ăn nhờ của dân chúng, chết chẳng ích gì cho quê hương; vậy mà không biết thân, còn muốn ăn tham của Tăng chúng nữa. Vả lại xưa nay, có ai thấy những đứa nhỏ còn ở trong bụng mẹ mà người ta cho nó ăn cơm bao giờ, mà nàng đòi xin một cách trái đời như vậy! Thôi hãy đi chỗ khác, chớ đừng nói chuyện dây dưa mà làm trễ giờ của bần Tăng lễ Phật.
Câu nói của vị trú trì vừa dứt, thì năm sắc mây màu kết lại, rực rỡ trên hư không; rồi người bần nữ ấy hiện ra chân tướng của đức Văn Thù, cưỡi con sư tử rất hùng tráng oai nghiêm, hai bên thì có Thiện Tài và Ưu Điền Vương đứng hầu,làm cho ai nấy trông thấy đều hoảng kinh và cúi đầu đảnh lễ.
Đức Văn Thù liền đọc bài kệ:
Bầu đắng, đắng tận gốc
Dưa ngọt, ngọt cùng dây
Ta đã siêu tam giới
Còn bị chư Tăng rầy!
Khi đọc bốn câu kệ rồi, thì đức Văn Thù liền ẩn thân năm sắc mây lành lần lần tan biến.
Thấy vậy, vị trú trì thất thần biến sắc, mở hai con mắt nhìn trân trân, một chặp lâu mới định trí lại, và tự trách mình rằng: Tiếc bấy lâu nay tu hành, ăn cơm Phật, nhận mình đã vào cửa vô vi, mà lòng từ bi còn kém, đức nhẫn nhục chưa tròn, đến nỗi không thấy chơn Thánh như vậy, thì ta còn để đôi mắt làm chi?
Vị trụ trì tự trách rồi, liền với tay lên muốn lấy con dao nhỏ để khoét đôi mắt,mọi người lật đật xúm lại giựt con dao và khuyên giải một hồi, thì ngài mới bớt lòng buồn rầu ân hận. Sau đó vị trụ trì đắp y hậu đến trước Phật đài, chí thành đảnh lễ Tam Bảo để thành tâm sám hối.
Từ đó về sau, đối với mọi người, vị trụ trì giữ được tâm từ bi bình đẳng để tiếp đãi, không còn phân biệt giàu nghèo, sang hèn nữa…
Còn đầu tóc của đức Văn Thù thị hiện bố thí đó. Thì nhà chùa xây dựng một ngôi tháp ngay chỗ Bồ Tát thị hiện xin cơm để tôn thờ, và hằng ngày chiêm ngưỡng cúng dường…
2.Ngũ Đài Sơn và câu chuyện Bồ Tát Văn Thù mượn đá thần
Ngũ Đài Sơn là một trong những ngọn núi Phật giáo nổi tiếng, đồng thời cũng là khu danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Trung Quốc.
Nghe nói núi Ngũ Đài vốn gọi là núi Ngũ Phong, thời tiết ác liệt, mùa đông giọt nước thành đá, mùa xuân gió thổi cát bay, mùa hè nóng bức khó chịu, nông dân không thể ra đông làm ruộng. Bồ tát Văn Thù đến đây truyền bá giáo nghĩa phật giáo, thấy mọi người khốn khổ, quyết định làm thay đổi thời tiết.
Bồ tát Văn Thù biết rằng Long vương biển Đông có một hòn đá thần gọi là “Yết Long Thạch”, có thể làm thời tiết kho ráo trở thành ẩm ướt, nên hoá phép thành một hoà thượng đi mượn Yết Long Thạch với Long vương.
Bồ tát Văn Thù gặp Long vương, nói rõ ý muốn của mình. Long vương xin lỗi: “sư phụ mượn gì cũng được, riêng Yết Long Thạch không thể cho mượn, vì thạch này đã mất hàng trăm năm mới vớt từ đáy biển lên, rất mát mẻ, hàng ngày con cháu làm lụng về nhà, mồ hôi nhễ nhài, khô nóng khó chịu đều nằm nghỉ trên Yết Long Thạch, nếu sư phụ mượn đi rồi, con cháu không có chỗ nghỉ mát nữa.”
Bồ tát Văn Thù nói đi nói lại mình là hoà thượng núi Ngũ Phong, là muốn đem hạnh phúc cho dân gian mới đến đây mượn Yết Long Thạch.Long vương không muốn cho mượn đá thần, lại không thể từ chối. Đoán bụng hoà thượng này không đủ sức vác hòn đá này đi, Long vương bèn nói: “đá thần này rất nặng, không ai giúp sư phụ, nếu sư phụ vác được thì vác đi.”
Bồ tát Văn Thù cảm ơn Long vương và đọc thần chú hòn đá to lập tức trở thành viên đá nho nhỏ. Bồ tát Văn Thù để viên đá này vào ống tay áo, rồi bay đi. Long vương rất kinh ngạc, hối hận không kịp.
Bồ tát Văn Thù để hòn đá thần vào một thung lũng giữa hai dãy núi, chuyện kỳ diệu xuất hiện: núi Ngũ Phong lập tức trở thành một bãi chăn nuôi thiên nhiên rất mát mẻ. Cho nên, thung lũng này được gọi là thũng lũng Thanh Lương, người ta lại xây một chùa ở đây, gọi là chùa Thanh Lương, núi Ngũ Đài cũng đổi tên là núi Thanh Lương. Đến nay, núi Ngũ Đài lại gọi là núi Thanh Lương.
Cả khu phong cảnh này hiện có 42 chùa cổ, trong đó chùa Nam thiền và chùa Phật Quang xây dựng vào thời nhà Đường TQ, đến nay đã có 1200 năm lịch sử, là kiến trúc bằng gỗ sớm nhất ở TQ.