Người tích được Âm Đức thường có 4 đặc điểm này
Người xưa có câu rằng: “Tích vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc giữ được. Tích sách để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đọc được. Chi bằng lặng lẽ tích âm đức để làm kế lâu dài cho con cháu thì hơn”.
Một chữ “Đức”, không ngờ lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và thiên cơ to lớn như vậy. Đó là những thông điệp mà người xưa muốn truyền cho nhân loại, đặc biệt là con người ngày nay khi ngày càng rời xa đạo, cận kề mối hiểm nguy.
Vậy âm đức là gì, vì sao cần tích âm đức? Và người tích âm đức thường có những đặc điểm nào? Vậy ngày hôm nay xin kính mời quý anh chị và các bạn hãy cùng Kênh Tử Vi đón xem trong video dưới đây nhé
I.Âm Đức là gì
Đối với con người mà nói, đức lớn hay nhỏ sẽ quyết định năng lực cá nhân đó lớn hay nhỏ, cũng như quyết định mức độ hạnh phúc, hướng đi và tầng thứ luân hồi của người đó. Cho nên muốn đắc được thì cần đắc cái đức, mà muốn “đắc” thì phải “thất’: muốn đắc được thì phải xả, buông bỏ những toan tính, dục vọng và thói quen xấu, muốn đắc được thì phải phó xuất.
Chữ Đức này có ý nghĩa rất thâm sâu. Trên chữ Nhất là Thập Mục, nghĩa là khắp trên Trời đều là con mắt. Còn ở dưới chữ Nhất là chữ Tâm, nghĩa là ở dưới Đất là nhân tâm, tâm con người. Như vậy có nghĩa là mắt Trời đang nhìn lòng người.
Tuy nhiên Đức lại được phân chia thành Âm Đức và Dương Đức. Đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau với những ý nghĩa khác nhau,
Âm không phải là “âm”, “dương” mà nó được hiểu như “âm công, âm đức, âm phúc” mang một ý nghĩa khác là ám, tức là thầm lặng, âm thầm hay kín đáo, không hiển lộ ra bên ngoài chẳng hạn. Điều này mang ý nghĩa như người làm việc thiện phải làm được ở trong sự thầm lặng, một cách kín đáo hay lặng lẽ và không hề phô trương.
Mọi người thường nói “tích âm đức”. Vì sao lại nói như vậy, rốt cuộc câu này có ý nghĩa gì? Thế nào gọi là âm dương? Phàm là hành thiện mà được người biết đến tức là dương thiện. Hành thiện mà người khác không biết đến gọi là âm đức.
Làm việc tốt để người khác biết gọi là “dương đức”. Dương đức phúc báo nhanh, người ta sẽ ca ngợi bạn, tuyên dương bạn, báo đáp bạn bằng vật chất hoặc khen thưởng biểu dương. Dương đức đã được báo đáp rồi thì sẽ hết.Làm việc tốt mà không để người khác biết gọi là “âm đức”. Âm đức dù không được ai biết đến, không được ai biểu dương, nhưng phúc báo lớn, tích được lâu dài.
Âm đức sẽ được Trời báo, dương thiện được hưởng tiếng thơm trên đời .Cũng có người nói rằng: Âm đức là chỉ những việc tốt đã làm ở dương gian mà lại được ghi công tại âm gian, là những việc tốt được làm một cách âm thầm, lặng lẽ.
Tục ngữ có câu rằng: “Con người hành thiện thì Trời đất đều biết, ắt có phúc báo”. Hành thiện chính là chỉ âm đức. Con người tích đức càng nhiều thì phúc báo càng lớn.
Âm đức trong dân gian còn gọi là “âm chất” (lặng lẽ an định lòng dân). Trong cuốn sách khuyến thiện “Văn xướng đế quân âm chất văn” nói rằng: Dẫu chúng ta làm việc tốt hay việc xấu thì đều có báo ứng với bản thân và người nhà mình, chính là “gần thì ứng với thân, xa ứng với con cháu”.
Đừng sợ làm việc tốt thì sẽ phải chịu thiệt. Hành thiện sẽ tích đức, đức ấy vĩnh viễn là của bạn, người khác không thể trộm được, không thể cướp được. Tự mình tu đức thì tự mình được phúc báo, vì đức là một loại năng lượng. Tuy đức nhìn không thấy, sờ không được, nhưng không lúc nào và không nơi nào là không tồn tại.
Dương đức không lâu dài, đa số là tùy theo việc làm tốt mà nhận được phúc báo ngay trong đời. Âm đức tích được lâu, hơn nữa càng tích càng lớn, càng tích càng dày, còn có thể để lại phúc trạch cho cháu con. Do đó làm việc thiện thì nên xuất tự đáy lòng, không nên truy cầu để người khác biết.
Người xưa rất coi trọng âm đức, cho rằng âm đức mới là trân quý, còn dương đức chỉ là một chút hư danh, không có giá trị thực tế đối với sinh mệnh.”Sống trong đời sống cần có một Tấm Lòng”, và tấm lòng chỉ ”để gió cuốn đi”.. Đó chính là âm đức vậy.
Âm đức chính là thành tựu việc tốt mà không cầu báo đáp. Dẫu người khác thờ ơ, lạnh nhạt, cười chê, kỳ thị cũng chẳng để tâm. Xây cầu đắp đường, đào giếng dẫn nước, châm đèn rót trà, quyên góp lo tang sự, cứu trợ lúc hiểm nguy đều là tích âm đức. Không cầu công danh, không xưng mình là người thiện, không tung hô người lại càng là âm đức.
Từ việc lớn như thấy người gặp nguy nan dũng cảm ứng cứu, đến việc nhỏ như tiện tay nhặt rác trên đường giúp người không trượt ngã cũng là âm đức. Âm đức có thể thấy trong những việc nhỏ không đáng kể đến trong cuộc sống. Thậm chí âm đức còn thể hiện trong cử chỉ tưởng chừng như đơn giản như: Luôn mỉm cười với mọi người, giúp kẻ phiền lòng giải mối phiền ngàn thu, chuyên tâm với công việc của mình khiến lãnh đạo yên lòng, đồng nghiệp mãn nguyện
Thông thường, người chăm làm việc thiện và tích nhiều âm đức sẽ lưu lại bốn đặc điểm, vậy đó là những đặc điểm gì?
1.Âm Đức thứ nhất: Cảm ân
Người biết cảm ân là người có tu dưỡng, cũng là người mang phúc khí. Mới qua sông đã vội quên đò, nếu như không biết cảm ân thì trong sinh mệnh sẽ có một loại khiếm khuyết, một loại bi thương.Kể từ khi cất tiếng khóc chào đời, chúng ta đã được ban cho quá nhiều ưu ái: cha mẹ cho ta sinh mệnh và sức khỏe, anh chị em cho ta niềm vui và tình thân, thầy cô cho ta tri thức và dạy dỗ ân cần, bằng hữu cho ta tình bạn và niềm tin.
Mỗi khi chúng ta chịu đựng một lần gió mưa, đi qua một đoạn lầy lội, thì đó là cuộc sống đang cho ta dũng khí niềm tin để vững bước… Hết thảy những trắc trở gập ghềnh trên đường đời đều dạy cho ta biết cảm ân để mỉm cười đối mặt!
Học biết cảm ân, cuộc đời sẽ nở hoa. Học biết cảm ân, nơi nơi đều là hoa thơm gió mát. Học biết cảm ân, sinh mệnh sẽ có niềm vui, hạnh phúc, có hy vọng, trong cuộc sống cũng sẽ không dễ dàng bỏ cuộc, dũng cảm tiến về phía trước.
Cảm ân là một phần không thể khuyết trong sinh mệnh. Nếu như thiếu mất lòng cảm ân, nhân sinh đâu đâu cũng nhấp nhô gập ghềnh. Nếu muốn có phúc báo và hảo vận, thì cần biết cảm ân.Bởi vì cảm ân nên sẽ có phúc báo. Do đó người thường tích âm đức, trên thân sẽ lưu lại lòng cảm ân.
Khi đức Phật còn tại thế, có một ông lão có 5 đứa con, nhưng chúng đều không muốn phụng dưỡng cha mình. Không còn cách nào khác, ông lão đành phải đi ăn xin trên đường phố. Ông cảm thấy cuộc sống tràn ngập đau khổ, cũng oán giận vì sự bất hiếu của những đứa con, nhưng cũng đành chấp nhận số phận bi thảm lúc tuổi già của chính mình.
Có một ngày, ông gặp được Đức Phật và hỏi: “Đức Phật từ bi, Ngài có cách nào có thể thay đổi vận mệnh của con không?”. Đức Phật liền hỏi ông ta: “Ông biết cảm ân là gì không?”. Ông lão trả lời: “Con không biết cảm ân là gì, xin Đức Phật khai thị”.
Đức Phật chỉ tay vào cây gậy trong tay ông lão và nói: “Ông có biết ơn cây gậy trong tay mình không?”. Ông lão nghe xong liền nói: “Con rất biết ơn cây gậy này! Lúc con đi xin ăn gặp phải những con chó hung hăng, nó chính là vật dụng giúp con đánh đuổi lũ chó. Và khi đi trên những con đường gập ghềnh, những khi leo dốc, xuống dốc, nó là vật dụng giúp con chèo chống để bước đi thêm vững chắc. Lúc mệt, con gối lên nó để nằm ngủ, nó chính là chỗ dựa tinh thần của con. Vì thế, con thật sự phải cảm ơn nó rất nhiều”.
Đức Phật vui mừng, khen ngợi: “Thiện tai, thiện tai! Vậy từ nay về sau, mỗi ngày ông hãy cầm cây gậy này và đừng quên nói lời cảm ơn, nói đến một thời điểm nào đó, vận mệnh của ông sẽ thay đổi!”. Ông lão nghe xong lời giáo huấn của Đức Phật, cảm thấy rất tin tưởng, từ đó về sau mỗi ngày ông đều nói cảm ơn.
Không chỉ cảm ơn chiếc gậy, ông còn cảm ơn những người tốt bụng đã bố thí cho mình, thậm chí còn cảm ơn những đau khổ mà mình đã trải qua, những kẻ xấu đã lừa gạt mình. Nói lời cảm ơn khiến cho trái tim ông không còn oán hận mà đọng lại chỉ là sự biết ơn. Năm tháng trôi đi, ông đã thành thạo được một phương pháp tu hành, gọi là “phương pháp cảm ơn cây gậy”.
Có một ngày khi Đức Phật đang giảng pháp, ông lão thầm nghĩ: “Cuộc sống hạnh phúc của ta hôm nay chính là do Đức Phật ban tặng, ta phải cảm ơn Ngài”, thế là ông liền đến nghe Đức Phật giảng pháp. Đức Phật thấy ông lão đến, liền nói với đại chúng: “Hôm nay chúng ta mời một người tu hành đến đây để nói về pháp ‘cảm ân tam muội’ của ông ấy’.
Thế là Đức Phật liền mời ông lão lên đài, để ông kể về câu chuyện cảm ân của mình. Đúng vào ngày hôm đó, 5 đứa con của ông cũng ngồi ở phía dưới nghe giảng, khi họ nghe cha mình nói: “Đối với một cây gậy còn phải thành tâm thành ý cảm ơn như thế, huống gì là con người. Đối với cha mẹ, người đã cho ta sinh mạng, nếu như còn không biết đền ơn đáp nghĩa thì người này còn không bằng cả loài cầm thú!”.
Sau khi nghe xong câu chuyện, năm người con đã rất xúc động, chúng lần lượt chạy lên đài, tranh nhau quyền nuôi dưỡng cha, tranh nhau nói: “Về nhà với con! Về nhà với con!”. Lúc đó Đức Phật liền nói với ông lão: “Vận mệnh của ông bây giờ đã thay đổi rồi! Một người có lòng cảm ân, họ sẽ có tất cả, một người không có tâm cảm ân, họ sẽ mất tất cả”.
Phật Pháp chỉ nói tới báo ân mà không giảng báo oán. Đối với ân huệ của người khác, lúc nào cũng phải luôn nhớ rằng: “Thụ ân một giọt, báo ân một dòng”. Còn đối với những thù oán của người khác, thì hãy quên nó càng sớm càng tốt, không nên canh cánh trong lòng, ghi hận trong tâm. Bởi vì lợi người cũng là lợi mình, hại người cuối cùng lại là hại mình.
2.Âm Đức thứ hai: Tâm thái hòa nhã
Người thường tích âm đức có tấm lòng đại thiện, do đó tính tình càng ngày càng hòa nhã, ít nóng giận, cử chỉ ngày càng nhẹ nhàng, tâm thái cũng càng ngày càng rộng rãi thênh thang.
Thường hay nổi nóng là biểu hiện của người “phúc bạc mệnh khổ”. Người hay cáu giận, để cho cảm xúc lấn át lý trí là người ngốc nghếch nhất trên đời. Kiểu người này thích dùng nỗi đau của người khác để giải tỏa chính mình, nhưng kẻ sỹ đại đức và người có trí huệ sẽ không làm như vậy, họ sẽ biết bình tĩnh làm chủ lý trí, để cơn giận cứ thế tiêu tan.
Mất bình tĩnh không giải quyết được vấn đề gì mà chỉ làm tổn hao phúc báo, tổn hại đến thân thể, hủy mất công đức trước kia của bản thân. Loại hành vi “trăm điều hại mà chẳng có được một điều lợi” này thì chỉ có những kẻ khờ khạo mới làm.
Bởi vì tâm thái luôn nhã nhặn, tường hòa, lấy thiện đãi người, cho nên tất sẽ có phúc báo. Do đó, trên thân người thường tích âm đức sẽ lưu lại tâm thái tốt, ít nóng giận.
3.Âm Đức thứ ba: Bình đạm giản đơn
Người bình đạm giản đơn không cầu danh, không trọng lợi, biết tùy kỳ tự nhiên, sống thuận theo mệnh trời. Bình dị giản đơn cũng chính là biểu hiện của người mang phúc báo, là người hạnh phúc nhất thế gian.
Sinh mệnh dài ngắn, trăm năm chóng vánh, một đời này có được bao lâu? Cứ mong đời như mơ, kỳ thực mộng lại hư vô. Một trăm năm cuộc đời chỉ có 5% là thống khổ long đong, 5% là vui vẻ thuận buồm, nhưng có đến 90% thời gian là trải qua trong bình bình đạm đạm.
Xưa kia có một chàng trai trẻ muốn khởi tạo tiền đồ cho bản thân nên đã rời quê hương lên đường lập nghiệp. Trước lúc khởi hành, anh đến thăm hỏi lão trưởng họ và thỉnh cầu ông chỉ dẫn cho mình. Vị bô lão trưởng họ lúc ấy đang viết thư pháp, nghe nói rằng có kẻ hậu bối sắp dấn bước trên con đường nhân sinh, ông liền viết ba chữ:
“Không sợ hãi”. Sau đó ông ngẩng đầu lên và nói với chàng trai trẻ tuổi kia: “Cháu à, bí quyết nhân sinh chỉ có sáu chữ, hôm nay ta tặng trước cho cháu ba chữ này, chỉ cần ghi nhớ ba chữ là có thể hưởng thụ nửa đời người”.
30 năm sau, chàng trai trẻ năm xưa nay đã bước vào độ tuổi trung niên, có thành tựu nhưng cũng có thất bại, có tận hưởng hạnh phúc nhưng cũng nếm trải rất nhiều chuyện đau lòng. Mang hành trang trên vai, anh hăm hở trở lại chốn quê nhà.
Đường về xa tít tắp, khi vừa đặt chân lên mảnh đất cố hương, điều đầu tiên anh làm là đến thăm lão trưởng họ. Nhưng mãi đến khi bước vào nhà anh mới biết, thì ra, lão nhân gia tạ thế đã được mấy năm rồi.
Người nhà trao cho anh một phong thư và nói: “Đây là di nguyện mà ngài trưởng họ để lại cho cậu, cụ nói nhất định cậu sẽ lại về”. Đến lúc này anh mới nhớ ra câu chuyện 30 năm về trước, cụ đã tiết lộ cho anh một nửa bí quyết nhân sinh. Anh bèn mở phong thư ra và thấy bên trong là ba chữ lớn: “Không hối hận”.
Nhân sinh như mộng, hạnh phúc không ít nhưng buồn đau cũng quá nhiều. Chỉ khi học được cách sống giản đơn và bình đạm, thản thản đãng đãng mà bước qua mới thực sự là người có phúc khí, có trí huệ. Đạo gia giảng: “Đại đạo chí giản chí dị”. Kỳ thực, sống giản đơn bình dị chính là phúc báo lớn nhất của đời người, là trí huệ cao nhất của nhân sinh.
4.Âm Đức thứ tư: Biết đủ thường vui
Người tích âm đức không cầu đại phúc đại quý, mà chỉ cầu “biết đủ thường vui”.Phúc báo của một người nhiều hay ít không thể hiện ở phương diện người ấy đắc được bao nhiêu, mà là anh ta có biết đủ, biết thỏa mãn với những gì mình đang có hay không.
Sống ở trên đời, vạn vật vô thường sớm còn, tối mất; tiền bạc, danh lợi có đi cùng hạnh phúc nên người giàu có chắc gì đã hạnh phúc, an yên? Phật dạy rằng biết đủ là đủ, người biết đủ là người giàu có nhất là người có đức nhất.
Người sống biết đủ, tuy nằm trên đất vẫn thấy an lạc; người sống không biết đủ, dù ở thiên đường cũng không vừa ý”. Đức Phật và các đệ tử của Ngài gia tài chỉ có ba y phục và một bình bát mà vẫn an lạc, tự tại. Bởi thế mới biết rằng sở dĩ con người khổ là vì có quá nhiều lòng mong cầu, tham muốn.
Chỉ khi dứt trừ tham dục, dừng lại những tạo tác do mê lầm mới cắt đứt được những phiền não, hệ lụy trong cuộc đời, chấm dứt vòng luân hồi lẩn quẩn vì nghiệp duyên ràng buộc, khi đó mới tìm thấy an lạc hạnh phúc thật sự trên cõi đời này
Cuộc đời mong manh ngắn ngủi, tạm bợ vô thường, sớm còn tối mất nào ai biết trước, niềm vui có được không bao nhiêu nhưng nỗi lo lắng, thất vọng, khổ đau chi phối cả cuộc đời. Càng nhiều tham muốn, dục vọng thì càng nhiều phiền não khổ đau, đến lúc nhắm mắt xuôi tay trở về cùng cát bụi mới hay những gì đã trải qua như giấc mộng.
Vậy mà ai cũng bỏ thời gian, công sức, có khi cả cuộc đời lao tâm khổ trí làm vô số chuyện: tốt có, xấu có; hay có, dở có; thiện có, ác có, tạo ra duyên nghiệp buộc ràng cho mình và cho người khác, làm nên những vòng xoáy cuộc đời nhấn chìm an lạc, hạnh phúc mà lẽ ra chúng ta có được. Có khi tham muốn, khát vọng chưa thỏa mãn thì đã lìa bỏ cuộc đời, bởi đời sống vẫn vô thường, tai nạn, bệnh tật, sống chết là điều không ai biết trước.
Sách “Liệt Tử – Thiên Thụy” có câu chuyện kể rằng: Khổng Tử khi ngao du núi Thái Sơn từng gặp một ông lão tên là Vinh Khải Kỳ. Thấy Vinh Khải Kỳ đang mặc y phục cũ nát nhưng vẫn vui vẻ gảy đàn cầm hát ca, Khổng Tử bèn hỏi: “Tiên sinh vui vẻ như thế là vì cớ gì?”.
Vinh Khải Kỳ đáp: “Tôi vui vì rất nhiều điều: Trời sinh ra vạn vật, duy chỉ có người là trân quý, vậy mà tôi lại được làm người, ấy là cái vui thứ nhất. Nam nữ khác biệt, nam tôn nữ ti, đắc được thân nam là quý, vậy mà tôi lại được làm nam giới, ấy là cái vui thứ hai. Sống trên đời, có người yểu mệnh không được thấy nhật nguyệt, còn đỏ hỏn trong tã mà cũng khó tránh khỏi số bi ai, vậy mà tôi vẫn được 90 xuân, ấy là cái vui thứ ba. Có được ba điều này, tôi không vui sao được?”.
Khổng Tử gật đầu nói phải, nhưng trong lòng vẫn không khỏi còn chút tiếc nuối: “Tài cao như tiên sinh, nếu gặp thời thịnh thế nhất định có thể thăng tiến. Nhưng Khổng tôi hôm nay ôm ngọc Cẩn Du mà không thể nào thi triển được, thật không tránh khỏi hối tiếc”.
Nào ngờ Vinh Khải Kỳ lại không cho là đúng, ông nói: “Từ xưa đến nay, kẻ đọc sách nhiều như cá diếc qua sông, nhưng có thể vượt Vũ Môn hóa rồng thì hỏi có mấy ai? Bần cùng là trạng thái bình thường của kẻ chữ nghĩa, mà cái chết lại là chỗ quay về của tất cả thế nhân. Tôi đây vẫn ở trong trạng thái bình thường của người đọc sách, lại có thể an tâm đợi chờ chốn đi về cuối cùng của sinh mệnh, vậy còn gì đáng để tiếc nuối đây?”.
Khổng Tử nghe xong trong lòng cảm phục mà khen rằng: “Lành thay! Tiên sinh quả là đã suy nghĩ thấu tỏ tận tường vậy”.Đây chính là điển cố “tri túc giả thường lạc” (người biết đủ thường vui) nổi tiếng trên văn đàn.
Trên con đường nhân sinh, biết hài lòng với những gì đang có mới có thể tận hưởng cuộc sống, biết đủ mới có thể an nhiên tự tại. Người không học cách biết đủ, chỉ tính toán thiệt hơn, dẫu đắc được nhiều hơn nữa thì vẫn mãi sống trong thống khổ. Nếu muốn tích lũy âm đức thì hãy sống giản đơn, hiểu được cảm ân, ít nóng giận, tiêu diêu tự tại trên đường đời.
Bởi vì biết đủ, cho nên có phúc báo. Bởi vì biết đủ, cho nên có niềm vui.
Kênh Tử Vi cung cấp các vật phẩm Phong Thủy Thái Lan đây đều là các vật phẩm đã được Trì Chú bởi sư thầy rất nổi tiếng tại Thái Lan sư thầy A.Safafaq mang lại rất nhiều công dụng thuần khiết cho những người sở hữu. Vui lòng tham khảo danh sách dưới đây
- Bùa cải vận Yzanh Non Duang (Đặc Biệt) – Bùa Thái Lan
- Takrut Chuỗi hạt hộ mệnh và hỗ trợ tài chính – Bùa Thái Lan
- Vòng tay tình yêu – Bùa Thái Lan
- Bùa Tài Lộc Bùa Thần Thaw Wessuwan Thái Lan – Bùa trừ tà, cầu tài lộc xua đuổi tà ma
- Takrut gọi khách, thu hút tài lộc – Bùa Thái Lan
- Takrut Phyanak Bùa yêu (Bùa Thái Lan)
- Takrut bùa triệu phú – Bùa Thái Lan
- Vòng tay chiêu tài lộc bùa may mắn theo tuổi – Bùa Thái Lan
- Bùa tài lộc vòng tay Thaw Wessuwan – Bùa Thái Lan