Hóa giải giờ “Kim Xà Thiết Tỏa”
1.Giờ Kim xà thiết tỏa là gì ?
Giờ Kim xà thiết tỏa (hay còn được gọi giờ Kim xà, Kim thiết) là một trong những giờ đại kỵ đối với trẻ. Nó vô cùng nguy độc và được xếp vào hạng bậc nhất trong tất cả những giờ đại kỵ để khởi đầu một sinh mệnh. Trẻ sinh phạm giờ Kim xà thiết tỏa thường đau ốm luôn, mạng sống khó giữ qua khỏi 13 tuổi
2.Cách tính giờ kim xà thiết tỏa
Để tính biết giờ Kim xà trước tiên bạn phải xác định được 12 cung tuổi trên các đốt ngón tay.
Sau khi xác định được các cung trên bàn tay, bắt đầu từ cung Tuất chọn tính làm năm Tý khởi thuận cho đến năm sinh của trẻ. Tại đây, lại bắt đầu tính nghịch cho đến tháng sinh. Đến tháng sinh lại chọn đó lấy làm ngày mồng một khởi thuận cho đến ngày sinh. Tương tự tại đây lại bắt đầu tính nghịch lại cho đến giờ sinh.
Nếu giờ sinh của bé trai phạm vào các cung Thìn, Tuất tức là trẻ phạm giờ Kim Xà. Ngược lại, với bé gái nếu phạm cung Sửu, Mùi tức là phạm giờ Kim xà.
Ví dụ: Trẻ sinh năm Tỵ, tháng năm, ngày 16, giờ Thìn. Vậy từ cung Tuất chọn tính làm năm Tý tính thuận đến năm Tỵ đóng tại cung Mẹo. Từ đây chọn làm tháng giêng khởi nghịch lại đến tháng sinh là tháng năm. Lúc này ta đang dừng lại trên cung hợi.
Tại đây chọn làm ngày mồng 1 khởi thuận đến ngày sinh là ngày 16. Đến ngày 16 dừng lại, từ cung đó kể là giờ tý khởi nghịch đến giờ sinh là giờ Thìn. Vậy giờ Thìn lúc này đóng ngay trên cung Tuất. Nếu là nam xem như phạm chánh Kim thiết. Nếu là nữ phạm nhằm Bàng giờ.
“Cụ tùng Tuất thượng Tý niên chi
Niên số thuận hành Nguyệt nghịch duy
Nhật số thuận hề Thời số nghịch
Hài đồng thọ thất tất tiên chi
Ngược ngộ Sửu Mùi do khả cứu
Thượng lâm Thìn Tuất bất thắng bi”
– Khởi năm Tý tại cung Tuất theo chiều thuận tới năm sinh, lấy đó làm cung tháng giêng.
– Từ cung tháng giêng đi nghịch tới tháng sinh.
– Từ cung tháng sinh lấy làm ngày mồng 1 đi thuận tới ngày sinh.
– Coi cung ngày sinh là giờ Tý đi nghịch tới giờ sinh.
Nam gặp cung Thìn – Tuất là phạm giờ Kim xà thiết toả (KXTT), Sửu Mùi là bàng giờ.
Nữ gặp cung Sửu – Mùi là phạm giờ KXTT, Thìn Tuất là bàng giờ.
Kết hợp với lá số tử vi của người sinh phạm giờ để kết luận được chính xác thọ hay yểu của đương số. Cần xem cung mệnh cung thân, cung phúc và đại vận mới kết luận được thọ hay yểu
Cung mệnh và cung thân của nam giới mà cũng an tại Thìn – Tuất là phạm chính kim thiết, còn an tại Sửu – Mùi là phạm bàng giờ
Cung mệnh và thân của nữ giới mà an tại Sửu – Mùi là phạm chính kim thiết còn an tại Thìn – Tuất là phạm bàng giờ
- Phạm chính kim thiết, rất khó nuôi, tỉ lệ yểu thọ lên tới 70% nếu mạng kém thân kém phúc kém, còn phạm bàng giờ thì hay đau ốm, quấy khóc, cha mẹ hay lục đục cãi cọ, tranh chấp, gia đạo bất hòa nhưng vẫn nuôi và lớn lên được
- Tùy theo phạm chính kim thiết hay bàng giờ mà kết luận xem hạn đến trước năm 13 tuổi hay sau 30 tuổi. Lúc đó xem cung mệnh hay cung thân an tại đâu. Nếu cung mệnh phạm chính kim thiết thì hạn đến trước năm 13 tuổi, khi đó xem tiểu vận, lưu đại vận để đoán tìm. Nếu cung thân phạm chính kim thiết thì hạn đến sau 30 tuổi
3. Hóa giải giờ kim xà thiết tỏa
Trong những giờ bị phạm, thì nặng nhất chính là giờ “Kim Xà Thiết Tỏa“, theo truyền thuyết thì vào giờ này, Long Vương đi bắt quân, trừ con nhà Phật – người tu hành thì không bị bắt. Phàm trẻ phạm giờ này thì thường gặp các họa sau:
- Sức khỏe rất kém, hồi xưa y học chưa phát triển, trẻ sẽ khó qua 2 ngưỡng là 13 tuổi và 30 tuổi, nhưng thời nay y học phát triển, họa ít rơi vào trẻ mà sẽ rơi vào ngôi bố – mẹ của trẻ (nếu trẻ chưa có thêm em)
- Bố mẹ gặp họa chia tay – li tán hoặc có người mất sớm.
- Trong tử vi, người sinh phạm giờ ” Kim xà thiết tỏa” rất dễ bị nạn sông nước, các sách tử vi đều nói :” người sinh phạm giờ này thì khó nuôi qua tuổi 13….Nhưng thực ra , hạn báo cho cả gia tộc, từ ông bà đến chồng, vợ, con, và bản thân người sinh phạm giờ cũng phải qua 33 – 37 mới thực sự qua hạn nạn, ví dụ có cục là thủy nhị cục trên lá số thì phải qua tuổi 33, mộc tam cụ thì phải qua tuổi 34, thổ ngũ cục qua 36…
Do đó, cách hóa giải khi chủ lá số bị sinh phạm giờ là nên lên chùa, làm lễ Quy Y Tam Bảo để lấy pháp danh, xem như là thủ tục thành đệ tử nhà Phật, nương tựa nơi cửa phật. Chứ không nhất thiết là phải vào chùa tu hành – xuống tóc,…, ngoài ra, việc bán khoán – gửi nuôi,… cũng sẽ không thỏa tiêu chí hóa giải việc bị sinh phạm giờ.
Nếu không bên Phật giáo, hoặc bên những tôn giáo khác, như Thiên Chúa, thì khi trẻ sinh ra đã có tên Thánh rồi thì cũng xem như là một hình thức hóa giải.
Cách hai: tìm người có cung Phúc đức tốt xin họ nhận làm cha mẹ nuôi.
Cách ba: tìm người cũng sinh trong giờ Kim sà thiết tỏa nhận con mình làm con nuôi.